Trang phục truyền thống của dân tộc Dao, ngành Dao Khâu tại thôn Đề Tâu, Xã Sáng Nhè, tỉnh Điện Biên

Dân tộc Dao (còn gọi Dìu Miền, Mán, Trại…) là một trong 54 dân tộc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Dân tộc Dao ở nước ta có khoảng 20 vạn người, với 5 ngành Dao sống đan xen với các dân tộc khác. Phạm vi cư trú của người Dao rất rộng, dải khắp các miền dọc theo biên giới Việt – Trung, Việt – Lào cho tới một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ.

      Tại tỉnh Điện Biên có 3 ngành Dao sinh sống: Dao làn tẻn, Dao đỏ và Dao khâu. Trong đó, người Dao khâu tập trung cư trú chủ yếu tại các xã Sáng Nhè, xã Nà Hỳ và xã Nà Bủng. Tại thôn Đề Tâu, xã Sáng Nhè, tỉnh Điện Biên, người Dao khâu ngoài các nét đặc trưng về phong tục tập quán đồng bào còn lưu giữ các bộ trang phục truyền thống độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá của dân tộc.

          Trang phục của người Dao khâu mang trong mình vẻ đẹp vừa tinh tế, vừa mộc mạc, là kết tinh của bàn tay khéo léo và tâm hồn giàu tính nghệ thuật của các cô gái vùng sơn cước. Nổi bật nhất trong kĩ thuật làm trang phục của người Dao khâu đó là nghệ thuật thêu hoa văn, từ xa xưa những cô gái đã được mẹ, bà truyền dạy lại cho cách thêu ở mặt trái của vải để hoa văn nổi lên ở mặt phải, tạo ra các hoa văn sắc nét, hài hoà, không lộ các đường chỉ thừa.

          Bộ trang phục của phụ nữ gồm áo dài, quần, khăn đội đầu, thắt lưng và tạp dề: Áo dài tiếng dân tộc Dao gọi là lui được khâu từ vải bông nhuộm chàm, dáng dài, xẻ tà  hai bên, tà trước ngắn hơn tà sau. Điểm nổi bật của chiếc áo các đường viền áo, cổ áo, tà áo, tay áo được trang trí cầu kỳ với các dải len màu đỏ, các chùm tua màu sắc tượng trưng cho sự dịu dàng, uyển chuyển khi di chuyển của người phụ nữ, đồng thời những đường chỉ thêu tỉ mỉ, sắc sảo như những cánh hoa rừng nở rộ, vừa thể hiện sự tinh tế trong thẩm mỹ, vừa gửi gắm khát vọng về cuộc sống no ấm, hạnh phúc. Chiếc cúc áo to bản có hình dạng chữ nhật bằng kim loại được khâu vào nẹp áo, khi mặc khuy áo sẽ được cài bởi một dải sợi len để giúp áo không bị tuột. Không chỉ đơn giản là vật để cố định áo, những chiếc cúc lấp lánh còn góp phần làm cho bộ trang phục thêm rực rỡ, sang trọng.

          Nổi bật nhất là chiếc khăn đội đầu, quấn nhiều vòng, như vầng mây phủ trên đỉnh núi, vừa mang tính thẩm mỹ, vừa gắn với tín ngưỡng truyền thống của người Dao, đồng bào quan niệm khi đội khăn giúp xua đuổi tà ma đồng thời trong các dịp lễ tết, cưới hỏi, tang lễ chiếc khăn còn là vật kết nối tâm linh, thể hiện sự tôn trọng của người đội khăn đối với ông bà, tổ tiên.

Anh 1c%20vb chguTVciUjX0FFYO

          Khác hẳn với các dân tộc khác cùng sinh sống, chiếc quần của người phụ nữ dân tộc Dao, ngành Dao khâu được làm rất cầu kì bởi các hoa văn thêu trên hai ống quần như hình cây thông, hình quả trám, hình con vật, hình mây…. Những áng hoa văn được thêu trên hai ống quần của người phụ nữ mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, mỗi một hoạ tiết hoa văn đều mang một ý niệm khác nhau, nhưng đều phản ánh chung về thế giới quan và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và thể hiện, mong ước về cuộc sống tốt đẹp, ấm no, hạnh phúc. Đũng được khâu bởi các mảnh vải hình thang, hình tam giác. Quy trình làm quần cũng rất khác biệt đó là sau khi thêu xong các hoạ tiết người phụ nữ mới dùng kim khâu thành chiếc quần hoàn chỉnh.

          Theo lời của bà Chảo Thị Ton, thôn Đề Tâu, xã Sáng Nhè: “Để thêu được một chiếc quần, người phụ nữ phải dành thời gian từ 3 đến 4 tháng để thêu được các hoa văn trên quần và phải mất từ 9 tháng đến 1 năm mới hoàn thành được bộ trang phục nữ”.

Anh 2dxfg A V5XAqebUKB6Pjc

          Trong các dịp lễ tết, ngày hội nhằm tô thêm vẻ đẹp, người phụ nữ người Dao khâu dùng thắt lưng thắt ở bên ngoài áo, thắt lưng tiếng Dao khâu gọi là lệ xin, trên thắt lưng thêu trang trí các hoa văn hình cây thông, hình quả trám, hình hoa bằng chỉ màu đỏ, xanh, trắng. Hai đầu thắt lưng có trang trí chùm tua làm từ sợi len đen.

          Một chi tiết quan trọng trong bộ trang phục của phụ nữ Dao Khâu đó chính là chiếc tạp dề đủ để che phủ phần trước của quần, không chỉ mang tính thẩm mỹ, tạp dề còn mang ý nghĩa bảo hộ và gắn bó với đời sống tinh thần. Người Dao quan niệm rằng, tạp dề che chở cho vùng bụng đây là nơi khởi nguồn sự sống, vì thế tạp dề tượng trưng cho sự bảo vệ, sinh sôi và trường tồn của dòng tộc. Trong các nghi lễ quan trọng, đặc biệt là lễ cưới cô dâu mặc tạp dề do chính tay mình làm, thể hiện sự khéo léo, đức hạnh và trách nhiệm giữ gìn hạnh phúc gia đình.

          Khác với trang phục nữ, trang phục truyền thống của nam giới dân tộc Dao, ngành Dao khâu được làm rất đơn giản, bộ trang phục chỉ bao gồm áo và quần. Thể hiện sự khỏe khoắn, mạnh mẽ, giản dị với màu sắc trầm, chủ yếu là gam màu đen.

          Áo hay còn gọi là lui: Màu sắc chủ đạo của áo nam là màu chàm, xẻ tà, cổ đứng. Áo có 4 túi, 2 túi nhỏ trên ngực. Cúc áo làm từ các đôi cúc vải. Áo nam Dao khâu thường được mặc trong các dịp lễ tết, nghi lễ truyền thống, cưới hỏi hoặc các sự kiện quan trọng của cộng đồng.

          Quần theo tiếng Dao khâu gọi là hấu. Được khâu từ vải bông nhuộm chàm, đũng và ống rộng, không trang trí hoa văn. Cạp quần được khâu từ một khổ vải nhuộm chàm màu xanh. Quần thường được mặc cùng với áo truyền thống của người Dao khâu tạo thành một trang phục tao nhã và sang trọng.

Anh 3ghf 1 WJwoPgm kW9bFX7I

          Trang phục trẻ em nam và nữ của người Dao khâu về kiểu dáng và chất liệu giống với bộ trang phục người lớn, chỉ khác nhau về kích thước.

          Trong văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung, của dân tộc Dao, ngành Dao Khâu tại thôn Đề Tâu nói riêng, các nghi lễ truyền thống vẫn được duy trì diễn ra hàng năm như: Lễ cấp sắc, Lễ cúng bản, Lễ cúng tổ tiên… Mỗi lễ cúng có những nghi thức khác nhau, từ việc chọn thời gian cúng, chuẩn bị đồ cúng, lời khấn, làm lễ, chọn hướng cúng, chọn tuổi cúng…Thầy cúng đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh, văn hóa và xã hội của cộng đồng người Dao.

          Theo quan niệm của đồng bào thầy cúng phải là nam giới, nắm rõ các nghi thức và có thể giao tiếp với các vị thần linh, cầu mong may mắn cho đồng bào. Khi thực hiện các nghi lễ, thầy cúng phải mặc bộ trang phục riêng, đó không chỉ là biểu tượng của sự trang nghiêm mà còn thể thể hiện vai trò và uy tín trong cộng đồng. Bộ trang phục thầy cúng bao gồm: áo trong (lui) và áo khoác ngoài (Lùi quá), quần (hấu), bộ đội đầu (Pê mủa) và thắt lưng (Lệ xìn pẹ).

          Áo trong và quần là trang phục truyền thống hàng ngày, tuy nhiên thầy cúng sẽ mặc áo khoác ngoài và bộ đội đầu, thắt lưng riêng biệt.

          Áo khoác ngoài hay còn gọi là lùi quá: Là áo 3 thân, dáng dài, được khâu từ 2 lớp vải: lớp ngoài bằng vải đỏ, lớp trong bằng vải xanh, giữa các thân được nối với nhau bằng 2, 3 dải vải nhỏ. Áo được cài bằng 2, 3 sợi dây buộc. Áo được thầy cúng khoác bên ngoài khi thực hiện các nghi lễ.

          Bộ đội đầu của thầy cúng khá cầu kỳ, gồm 3 chi tiết: Chi tiết thứ nhất là một chiếc khăn (gọi là khăn số 1) được làm từ khổ vải màu đỏ không trang trí hoa văn, rộng khoảng 25cm – 30cm, chiều dài khoảng 150cm – 200cm, người thầy cúng sẽ quấn chiếc khăn đầu tiên ôm sát đầu sau đó quấn đến chi tiết thứ 2 (gọi là khăn thứ 2), khăn có dạng hình tam giác, lớp trong được làm bằng bìa cứng, lớp ngoài là vải bông nhuộm chàm thêu trang trí các hoa văn hình cây, hình hoa màu trắng trên nền chàm, điểm nhấn là các chùm tua hai bên cạnh khăn, khi quấn sẽ đưa phần khăn hình tam giác ra phía sau đầu sao cho ôm sát phần đầu để rủ các chùm tua, rồi dùng dây buộc giữ chặt. Chi tiết số 3 là một dây buộc, dây được buộc phía ngoài cùng giúp cố định các khăn lại với nhau. Đồng bào quan niệm khăn đội đầu giúp che chắn, bảo vệ thầy cúng khỏi sự quấy nhiễu của các loại tà ma, đồng thời giúp cho các vị thần linh, tổ tiên nhận diện cấp bậc, vai trò của thầy cúng trong quá trình thực hành nghi lễ.

Anh

          Thắt lưng là phụ kiện không thể thiếu trong trang phục hành lễ của thầy cúng thể hiện sự khác biệt giữa người thường và người có khả năng giao tiếp với thần linh, tổ tiên. Khi khoác lên mình bộ lễ phục cùng chiếc thắt lưng, thầy cúng được xem như người trung gian giữa thế giới trần tục và cõi linh thiêng.

          Ngày nay trang phục không chỉ chỉ đơn thuần là vật che chắn cơ thể, mà còn là ngôn ngữ văn hóa, gắn liền với tín ngưỡng, tôn giáo và các nghi lễ của dân tộc. Nhiều họa tiết và màu sắc trên trang phục có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, giúp con người kết nối với thần linh, tổ tiên, hoặc mang ý nghĩa cầu mong sự bình an và bảo vệ sức khỏe. Trang phục ghi dấu sự khéo léo, sự nhẫn nại và tình yêu cái đẹp. Đó là di sản được truyền qua nhiều thế hệ, góp phần gìn giữ bản sắc của cộng đồng Dao Khâu nơi núi rừng Điện Biên.

Đánh giá bài viết

Viết một bình luận

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

Liên kết kênh thông tin các tỉnh

Show Buttons
Hide Buttons